Mặc Giao
(Bài này đã được thuyết trình trong cuộc Hội Ngộ Dân Chúa Hải Ngoại ngày 3-6-2011 tại Westminster, California, Hoa Kỳ, và đã được một số webs trong nước phổ biến)
Vấn đề Việt Nam vốn phức tạp. Tình hình Việt Nam có thể được nhìn từ nhiều khiá cạnh với những lập trường khác nhau. Người thì cho rằng Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ về kinh tế từ 1986 đến nay, đồng thời cũng cởi mở cách cai trị khiến người dân được dễ thở hơn. Người khác lại nhận định rằng những tiến bộ tương đối về kinh tế và chính trị ở Việt Nam không thể đắp bù những tụt hậu trong tất cả mọi lãnh vực. Tuy nhiên, có một sự thật không thể chối cãi, đa số người Việt ở trong và ngoài nước cũng như những nhà quan sát chính trị quốc tế, hay cả những du khách, thấy Việt Nam còn qúa nhiều thiếu sót cần phải cải thiện, thấy đất nước và dân tộc Việt Nam còn có nhiều tiềm năng để phát triển hơn tình trạng hiện tại, nếu những người cai trị dám trực diện với những vấn đề, có thiện chí và quyết tâm giải quyết. Chúng ta không có thiên kiến cho rằng cái gì của Việt Nam cộng sản cũng xấu. Nhưng chúng ta cũng không mờ mắt vì những hình ảnh hào nhoáng và những lời lẽ nặng tính tuyên truyền và tâng bốc. Người viết cố gắng khách quan khi thực hiện bài nhận định này. Bài nhận định sẽ gồm có ba phần:
I - Thực trạng của đất nước
II - Những hậu qủa ảnh hưởng tới xã hội và tâm thức của cộng đồng dân tộc
III - Những điểm hẹn không thể vắng mặt trong một tương lai gần.
I - THỰC TRẠNG CỦA ÐẤT NƯỚC
Nếu kể những điều tích cực đang xảy ra tại Việt Nam, chúng ta có thể kể trong vài phút. Nhưng nếu nói tới những điều tiêu cực, chúng ta có thể nói cả ngày vẫn chưa hết và sẽ làm người nghe phải than: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”. Vì vậy chúng tôi chỉ trình bầy những gì chúng tôi nghĩ là cần phải nói.
1/ Một nền kinh tế vô định hướng
Chúng ta nhìn nhận Việt Nam đã đạt một số tiến bộ về kinh tế từ năm 1986, khi Ðại Hội 6 của đảng Cộng Sản Việt Nam chọn Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và quyết định áp dụng kinh tế thị trường, mở cửa cho tư bản ngoại quốc đến đầu tư. Ðể thực hiện điều này, nhà nước Việt Nam đã phải ban hành một số luật lệ và áp dụng một số biện pháp mới khả dĩ đáp ứng nhu cầu giao lưu quốc tế và tạo một bộ mặt coi được cho “quan trên trông xuống, người ta trông vào”. Từ đó, đời sống của dân chúng cũng đỡ bị bóp nghẹt, không còn nạn tem phiếu, xếp hàng cả ngày, ngăn sông cấm chợ. Kinh tế tự do như một giòng nước tìm chỗ chảy, chỗ nào không bị be bờ là nước sẽ tràn tới. Vì vậy, sự tiến bộ tương đối về kinh tế trong gần ba thập niên qua là điều tất nhiên. Lợi tức thường niên tính theo đầu người từ 300 Mỹ kim cách đây 25 năm đã tăng lên 1,200 Mỹ kim trong năm nay (theo Phó Thủ Tướng Nguyễn Sinh Hùng), dù còn thua rất xa những nước lân bang như Thái Lan, Mã Lai, Singapore (1). Một số chính phủ và nhân vật chính trị cổ võ quan điểm nên giúp các chế độ độc tài phát triển kinh tế. Một khi kinh tế khá lên, tự do và dân chủ cũng sẽ triển nở, vì lúc đó dân chúng sẽ đòi thỏa mãn những nhu cầu khác ngoài nhu cầu cơm áo. Luận điểm này đã được chứng minh ngược lại với các trường hợp Trung Hoa và Việt Nam. Nó chỉ còn giá trị biện minh cho sự cộng tác với những chế độ đàn áp con người.
Áp dụng kinh tế thị trường là đi ngược điểm cốt lõi của chủ thuyết cộng sản, theo đó quyền tư hữu không được công nhận, tài sản do mọi người làm ra phải được tập trung trong sự quản trị của nhà nước vô sản chuyên chính và sẽ được phân phối theo nhu cầu. Vì vậy, để khỏi mang tiếng hoàn toàn đánh mất lập trường cơ bản, kinh tế thị trường được gắn thêm cái đuôi “theo định hướng xã hội chủ nghiã”. Nếu xã hội chủ nghiã được hiểu là thực thi tình đoàn kết liên đới (solidarity) theo chế độ dân chủ xã hội (social democracy) như ở các nước Bắc Âu: người giầu giúp người nghèo, người khỏe mạnh giúp người đau ốm, người trẻ nuôi người già, người có việc nuôi người thất nghiệp, nhà nước chỉ đóng vai trò điều hành và phân phối một cách trong sáng, thì đó là điều vạn phúc cho dân. Thế nhưng định hướng xã hội chủ nghiã trong ý nghĩ và hành động của cộng sản Việt Nam chỉ là “quốc doanh chủ đạo”. Những công ty nhà nước nắm hết những ngành sản xuất và doanh thương quan trọng. Tại những quốc gia dân chủ bình thường, những công ty quốc doanh chỉ được duy trì một cách hạn chế để làm đầu tầu kéo chính sách kinh tế vĩ mô và bảo đảm an toàn cho việc cung cấp những dịch vụ có lợi ích công cộng hay thiết yếu cho an ninh quốc phòng (bưu điện, giao thông, dầu khí, điện nước …). Nhà nước cộng sản Việt Nam có giảm bớt một số công ty quốc doanh qua biện pháp cổ phần hóa, nhưng vẫn giữ lại nhiều công ty không thuộc lãnh vực phục vụ công ích và an ninh quốc gia. Thêm vào đó, dưới trào Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, những tập đoàn doanh thương nhà nước có tầm vóc bao trùm với số vốn khổng lồ được thành lập, như Vinashin (kỹ nghệ tầu thủy), công ty tài chánh ALC II (lease financing, cho vay tài khoản tạo mãi thiết bị sản xuất). Các tập đoàn này được đặt trực thuộc thủ tướng. Việc giữ lại cái đuôi định hướng xã hội chủ nghiã với những đại công ty và tập đoàn kinh tế còn có những tính toán không thể nói ra:
Rút tiền từ các công ty để tài trợ cho đảng cộng sản,
Làm giầu cá nhân qua những món tiền đi đêm khi ký hợp đồng và chia chác hoa hồng,
Gài người thân tín vào các chức vụ chỉ huy các công ty để nắm luôn quyền lực kinh tế.
Tư lợi thì như thế, nhưng trách nhiệm thì vô can. Công ty nào lỗ vốn đã có tiền của quốc gia đắp bù. Vinashin nợ 80,000 tỷ đồng VN trước khi tái cơ cấu, trong số nợ này 750 triệu Mỹ kim là trái phiếu chính phủ (VNExpress 24-5-2011). Vinashin không có tiền trả nợ và lãi định kỳ cho các ngân hàng quốc tế khiến nhà nước phải ứng thêm 500 triệu Mỹ kim. ALC II lỗ 3,004 tỷ đồng VN trong năm 2009, và đến cuối năm 2010 công ty này vừa lỗ vừa làm thất thoát tới 4,000 tỷ đồng (theo Ban Kiểm Toán công ty ALC tháng 10, 2010). Tổng công ty xăng dầu lỗ 3,600 tỷ trong 3 tháng (2). Lối làm ăn phản kinh tế này chứng tỏ những người cầm quyền không dám tiến thẳng tới nền kinh tế thị trường tự do, vì chưa dám lột bỏ nhãn hiệu xã hội chủ nghiã (dù nội dung đã khác hết rồi), sợ “diễn biến hòa bình” xảy ra và vì còn muốn tiếp tục thủ lợi qua chính sách kinh tế nhập nhằng này, đúng như Hà Sĩ Phu nhận định: “Ðổi mới là lọc lấy cái béo bở, còn tự do dân chủ thì vứt bỏ…Làm kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghiã chính là đứa con lai láu cá đó. Trong cách tính toán ấy làm gì có dân?” (Chia Tay Ý Thức Hệ).
Trong khi đó việc để cho hàng lậu tràn ngập thị trường nội địa, đặc biệt xuất phát từ Trung Quốc, gây thất thâu cho ngân sách quốc gia và giết chết nhiều ngành công nghệ bản xứ. Nạn nhân viên thuế vụ kiếm tiền riêng trong việc thỏa hiệp với người đóng thuế cũng gây thiệt hại cho công qũy những số tiền khổng lồ không ai ước lượng nổi.
Làm kinh tế như thế thì sớm muộn cũng dẫn đến phá sản. Hậu qủa trông thấy là đồng bạc VN mất giá 20% trong vòng ba năm nay, chính phủ VN nợ ngoại quốc 29 tỷ Mỹ kim, mỗi năm phải trả tiền lời 4 tỷ Mỹ kim. Chỉ trong tháng 5-2011, nhập cảng nhiều hơn xuất cảng 1.7 tỷ Mỹ kim, ngoại tệ dự trữ chỉ còn 12,2 tỷ (theo Tổng Cục Thống Kê), không đủ trả tiền lời và mua hàng nhập cảng cho năm nay, trong đó có những nguyên liệu cần thiết cho các nhà máy. Chắc chắn nhà nước sẽ phải đi vay nợ thêm, dù số nợ công đã tăng tương đương 52,6% tổng sản lượng nội địa (GDP). Hệ thống ngân hàng rối loạn. Ngân hàng nhỏ vay tiền ngân hàng lớn của nhà nước với lãi xuất 20% để chi phí cấp thời và cho vay lại với lãi xuất 14% theo luật định (đài BBC 23-5-2011, theo hãng tin tài chánh Bloomberg). Nợ xấu không có khả năng trả lên tới 60% (3). Lối làm kinh tế giật gấu vá vai và “mì ăn liền” kiểu này sẽ tạo nguy cơ phá sập nền kinh tế còn non nớt. Tệ hại hơn cả là nạn vật giá leo thang. Giá tiêu thụ tăng 17,51% trong tháng 4 và 19,78% trong tháng 5-2011 so với cùng thời gian hai tháng này năm trước (theo Bloomberg), khiến đời sống của những người có lợi tức thấp càng thêm cơ cực. Nhà nước tìm cách giảm lạm phát bằng việc tăng lãi xuất cho vay để hạn chế khối tiền tệ lưu hành. Giải pháp này chẳng những không hữu hiệu với hoàn cảnh Việt Nam hiện tại mà còn gây khó khăn cho các cơ sở doanh thương ít vốn, khiến các cơ sở này phải thu hẹp hoạt động, sa thải nhân công, làm cho kinh tế trì trệ thêm. Kinh tế Việt Nam đang đi theo đường nào và sẽ đi về đâu?
2/ Một đất nước bị bán rẻ, bị khai thác và tàn phá
Bổn phận đầu tiên của những người có trách nhiệm quản trị đất nước là bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ quốc gia và bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân. Những người cầm quyền cộng sản VN đã làm gì?
- Họ đã nhượng một phần lãnh thổ và lãnh hải cho cộng sản Trung Hoa để đổi lấy sự ủng hộ chính trị cho riêng đảng cộng sản của họ. Ðược đà, cộng sản Trung Hoa đã leo thang đòi chủ quyền đảo và biển từ Hoàng Sa cho tới hết Trường Sa theo hình lưỡi bò do họ tự vẽ. Ngoài những lời phản đối lấy lệ, cộng sản VN không có một hành động cụ thể nào, kể cả hành động pháp lý hòa bình nhất, để bảo vệ những gì đã mất hay đe dọa bị mất. Ngay khi những chiếc tầu của Trung Quốc xâm nhập hải phận VN để vét hải sản (mỗi ngày có từ 100 đến 200 tầu đánh cá Trung Quốc xâm nhập và khai thác biển VN) hay kéo tầu, bắt giết ngư dân VN, nhà cầm quyền VN chẳng những không có biện pháp bảo vệ lãnh hải và công dân của mình mà còn không dám gọi đích danh đó là tầu của Trung Quốc, chỉ dám nói “những tầu lạ”.
Thái độ thuần phục và sợ hãi của nhà cầm quyền VN đã khuyến khích Trung Quốc leo thang trong hành động xâm lăng để tự xác nhận toàn thể vùng biển vẽ hình lưỡi bò là của họ:
* Ngày 26-5-2011, khi tầu Bình Minh 02 của Tập Ðoàn Dầu Khí VN đang khảo sát địa chấn trong lãnh hải VN cách mũi Ðại Lãnh, tỉnh Phú Yên 116 hải lý, nằm sâu trong giới hạn 200 hải lý thềm lục địa theo Công Ước Luật Biển năm 1982 do Liên Hiệp Quốc ấn định, ba tầu hải giám của Trung Quốc kéo đến hăm dọa và cắt đứt những dây cáp thăm dò. Trước việc xâm lăng trắng trợn như thế, lần đầu tiên Bộ Ngoại Giao cộng sản VN phải lên tiếng phản đối Trung Quốc một cách mạnh mẽ và đòi bồi thường. Trung Quốc trả lời một cách phách lối: “Những gì mà các cơ quan liên quan của Trung Quốc đã làm là các hoạt động giám sát và thực thi luật pháp hoàn toàn bình thường ở khu vực biển thuộc thẩm quyền tài phán của Trung Quốc” (Phát ngôn viên Khương Tử Du của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc. Theo TTXVN).
* Ngày 31-5-2011, ba tầu quân sự của Trung Quốc đã nổ súng uy hiếp, ngăn cản bốn tầu đánh cá của ngư dân Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, trên vùng biển thuộc chủ quyền VN, gần đảo Ðá Ðông, thuộc quần đảo Trường Sa. Ngư dân đã phải quay mũi tầu trốn chạy.
* Ngày 9-06-2011, 3 tầu Trung Quốc lại cắt dây cáp thăm dò của tầu Viking 2 do Petro Vietnam thuê ngay ở ngoài khơi Vũng Tàu.
Vấn đề đặt ra là hải quân VN ở đâu mà để tầu Trung Quốc tự do ra vào lãnh hải VN như vào ao nhà của họ? Hoặc Hải Quân VN có mặt tại đó nhưng không dám phản ứng vì chưa nhận được “lệnh của Bộ Chính Trị”? Sau những lời phản đối, cộng sản VN sẽ làm gì, hay lại để cho mọi chuyện đi vào quên lãng, và chờ lên tiếng phản đối khi có vụ khác xảy ra? Thái độ nhu nhược này phải được coi như hành động đồng lõa, đầu hàng và bán nước, một tội mà nhân dân Việt Nam, dù thuộc bất cứ lập trường chính trị nào, không thể tha thứ.
- Họ đã cho Trung Quốc băm vằm lãnh thổ, khai thác bauxite tại cao nguyên Trung phần, gây ô nhiễm môi trường, cho chuyên viên và thợ thuyền người Hoa đến đóng chốt tại những địa điểm có tính cách chiến lược và an ninh quốc phòng. Họ còn cho người nước ngoài thuê dài hạn 50 năm những khu rừng đầu nguồn thuộc 18 tỉnh trải dài từ Bắc xuống Nam, chiếm 1% diện tích lãnh thổ. Rừng cho thuê bị đốn cây có sẵn để trồng những loại cây khác theo ý muốn của người thuê. Các chính quyền địa phương tại những tỉnh ven biển cũng bắt chước trung ương khoanh biển và bờ biển cho các công ty ngoại quốc thuê để xây khách sạn, lập bãi tắm riêng, nuôi cấy thủy sản trong những vùng biển rộng hàng ngàn mẫu tây, đe dọa thay đổi sinh thái của toàn thể vùng biển Việt Nam (4).
- Họ đã rút ruột những công trình xây cất khiến giá thành cao và phẩm chất kém. Cụ thể là những công trình mới được xây nhân dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long, như công viên Hòa Bình và đại lộ Thăng Long, tốn kém hàng tỷ Mỹ kim nhưng đã lún lở, bong nứt, đọng nước ngay khi lễ hội vừa xong. Nguyên nhân là những người có quyền đã ăn chịu với nhà thầu, mọi công đoạn đều có đút lót, chia chác, khiến số tiền thực sự dành cho công trình còn lại không bao nhiêu. Hậu qủa tự nhiên là những công trình được thực hiện bôi bác bằng những vật liệu kém, thiếu tiêu chuẩn, sẽ chóng hư hỏng.
- Họ để mặc cho các công ty kỹ nghệ tự do tháo nước thải đầy hóa chất độc hại xuống các giòng nước, tự do xả khói độc lên bầu trời, gây ô nhiễm môi trường và tàn phá sức khỏe của người dân. Công ty Vedan đã biến sông Thị Vải thành một giòng nước độc. Có những làng ở miền Bắc chìm trong tang thương vì có rất nhiều dân làng đã chết vì bệnh ung thư do khói độc và nước thải của những xưởng kỹ nghệ gần đó gây ra. Nếu tình trạng này tiếp tục, chỉ trong một thời gian ngắn nữa, đất nước Việt Nam sẽ biến thành đất chết.
Ðất nước bị bán rẻ, bị khai thác, bị bòn rút, bị bỏ mặc cho bọn con buôn vô lương tâm tàn phá, chỉ vì lợi riêng của những người cầm quyền cộng sản.
3/ Một dân tộc bị bóc lột và trấn áp
Dân tộc VN đã trở thành công cụ cho đảng cộng sản thực hiện giấc mơ quyền lực, không đếm xỉa tới xương máu của nhân dân và tài nguyên của quốc gia. Họ cũng dùng dân Việt để thử nghiệm việc áp dụng chủ thuyết cộng sản: hận thù giai cấp, cải cách ruộng đất, quản lý bao tử, kiểm soát ý nghĩ và kiểm soát cả niềm tin. Khi thất bại và tình thế đòi hỏi, họ đổi sang đường lối gọi là cởi mở với chiêu bài kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghiã, vừa để giải quyết vấn đề kinh tế, vừa để bọn họ có cơ hội làm ăn, vơ vét theo kiểu mới. Vì thế, nhiều tệ nạn phát sinh và được tự do phát triển
- Nạn tham nhũng đã lan tràn và luồn lách vào mọi tế bào xã hội, không chỉ riêng trong guồng máy công quyền. Lớn tham nhũng lớn, nhỏ tham nhũng nhỏ, dân cũng tham nhũng với nhau. Muốn được việc phải có qùa cáp hay phong bì lót tay. Xin việc, xin học đều phải hối lộ. Muốn con được điểm tốt thì phải biếu xén thầy cô, cho con học thêm tại nhà thầy cô. Người lớn bị cướp tiền. Trẻ con bị cướp tuổi thơ, không còn giờ vui chơi, mơ mộng. Tệ nạn tham nhũng không thể chữa nếu không thay đổi cơ chế chính trị và không có quyết tâm diệt tham nhũng và làm gương từ cấp cầm quyền thượng tầng.
- Thiếu vắng những biện pháp giáo dục, y tế và xã hội nhằm phục vụ đại đa số nhân dân. Giáo dục công nhưng không miễn phí, mỗi trường tự ý đặt ra những lệ phí bắt phụ huynh phải trả. Học sinh khi thi tốt nghiệp trung học phổ thông cũng phải đóng tiền ủng hộ nhà trường trước khi rời trường. Nhiều gia đình không kham nổi đành cho con nghỉ học. Con số trẻ em bỏ học và thất học gia tăng. Dịch vụ y tế đã biến thành dịch vụ làm tiền. Bệnh nặng hay nhẹ đều phải có tiền mới được chữa trị. Nhà nước mới gia tăng lệ phí trên 350 dịch vụ y tế. Người bệnh không có tiền mà lết đến nhà thương sẽ bị chửi bới và xua đuổi như ăn mày, chỉ còn nước về nhà chờ chết. Những gia đình nghèo, những người góa bụa, những trẻ em không người nuôi dậy, những người già cả không ai phụng dưỡng sống lây lất, nhà nước không nhòm ngó tới. Nhiều tổ chức từ thiện trong và ngoài nước đã phải làm thay những việc đáng lẽ nhà nước phải làm.
- Tước đoạt quyền công dân và những tự do căn bản trong đó có tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do bầu những người đại diện để điều khiển đất nước được ghi rõ trong Hiến Pháp nhưng trên thực tế bị cấm đoán triệt để. Ai xử dụng quyền chính đáng của mình sẽ bị vu oan, bị khép vào tội vi phạm an ninh quốc gia và bị xử theo điều 88 Luật Hình Sự. Một thứ quyền cao trọng nhất thuộc phần tâm linh của con người, tự do tôn giáo, cũng bị cấm đoán dưới nhiều hình thức tinh vi. Dẹp được giáo hội nào thì dẹp luôn. Không dẹp được thì dùng biện pháp chia để trị bằng cách lập ra giáo hội mới, xúi bẩy phân chia giáo hội chính truyền thành nhiều phe phái (Phật Giáo), lập những ban trị sự giáo hội gồm những tay sai cộng sản (Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Ðài), tìm thỏa hiệp với các vị lãnh đạo tinh thần bằng chính sách cây gậy và củ cà rốt (Công Giáo). Cộng sản và tôn giáo là hai đối thủ không đội trời chung. Ngay lúc trời yên gió lặng, hai bên cũng chỉ đối xử với nhau bằng mặt, không bằng lòng. Tín đồ các tôn giáo là những khối quần chúng có một niềm tin khó lay chuyển và dễ nghe lời các vị lãnh đạo tinh thần. Vì vậy, muốn làm suy yếu khối quần chúng tín đồ thì phải xé nát khối này thành nhiều mảnh và phải nắm được các chức sắc của các giáo hội. Mỗi giáo hội được cư xử và đàn áp một cách khác nhau, tất cả đều nhắm mục tiêu vô hiệu hóa sức mạnh của khối quần chúng các tôn giáo.
- Ðối xử tàn ác với dân: tệ nạn cướp đất, cướp ruộng, đuổi nhà, bồi thường với giá rẻ và bán lại với giá gấp trăm đã tạo ra từng đoàn lũ dân oan, bỏ công ăn việc làm, dẫn nhau đi khiếu kiện từ Sài Gòn ra Hà Nội mà không được ai tiếp xúc và giải quyết. Những người lên tiếng một cách hòa bình đòi tự do, dân chủ, nhân quyền bị đánh đập, vu oan, bắt nhốt, đưa ra tòa và bỏ tù. Những vụ đàn áp trắng trợn nhất mới xảy ra vào tháng 4-2011 cho Luật sư Lê Quốc Quân, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, Luật sư Cù Huy Hà Vũ. Blogger Nguyễn Văn Hải, tức Ðiếu Cầy, đã hết hạn tù một năm nay nhưng vẫn bị giam và thân nhân không biết hiện ông bị giam ở đâu. Ngày 30 tháng 5 vừa qua, Tòa án tỉnh Bến Tre xử 7 công dân vô tội và lên án tổng cộng 60 năm tù, cả tù ở lẫn tù tại gia. Người bị nặng nhất là một phụ nữ, bà Trần Thị Thủy, lãnh 8 năm tù và 3 năm quản chế. Họ chỉ có “tội” đòi tự do tôn giáo và khiếu oan vì bị cướp tài sản nhưng bị kết án về tội “lật đổ chế độ” chiếu điều 79 Luật Hình Sư. Cộng sản còn có thói quen “ăn thịt” chính những đứa con của mình: Nguyễn Hộ, Trần Ðộ, Hoàng Minh Chính và mới đây Vi Ðức Hồi.
Nhà cầm quyền VN cũng ra lệnh cho nhân viên công lực thẳng tay bạo hành và tàn sát dân lành. Họ đánh đập giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân lòi mắt, bể đầu, gẫy tay tại Tam Tòa, Ðồng Chiêm, Loan Lý, Cồn Dầu. Chỉ trong bốn tháng đầu năm 2011, đã có 5 người dân vô tội bị công an đánh chết chỉ vì vi phạm luật giao thông hay những tranh chấp bình thường. Tổng số dân lành bị công an đánh chết hay chết tại đồn công an đã lên tới 25 người trong mấy năm qua. Vào tháng 4 vừa qua, chị Nguyễn Thị Thanh Tuyền, vợ nạn nhân Nguyễn Công Nhật ở Bình Dương còn bị một sĩ quan công an gọi điện thoại tống tình, đòi chị dâng hiến thân xác để đánh đổi sự an toàn cho chồng, trong khi chồng chị đã chết một cách mờ ám ở đồn công an. Thật không còn hành động nào tàn ác và đê tiện hơn! Tội nghiệp cho dân Việt Nam! Họ được những người mệnh danh là đầy tớ nhân dân đối xử như quân thù, muốn bắt, muốn đánh, muốn giết lúc nào tùy ý. Dân Việt Nam đang bị cai trị bởi những kẻ không còn tình người, tuy cùng giòng máu nhưng hung ác và nhẫn tâm hơn những tên thực dân ngoại chủng cướp nước ngày xưa.
II - NHỮNG HẬU QUẢ ẢNH HƯỞNG TỚI XÃ HỘI VÀ TÂM THỨC CỦA CỘNG ÐỒNG DÂN TỘC
Tình trạng đất nước như trình bầy ở trên đã gây ra những hậu qủa tai hại cho xã hội và cho tâm thức của con người Việt Nam.
1/ Mất ý niệm công ích và liên đới xã hội
Ða số (chúng tôi không dám nói tất cả) dân Việt Nam ở trong nước hiện nay đã mất ý niệm công ích, thí dụ tự ý làm những việc nhỏ nhặt như lượm một cọng rác, không vứt tàn thuốc lá bừa bãi, không bứt hoa đạp cỏ tại công viên, cho tới những việc lớn hơn một chút như tôn trọng luật lệ giao thông, nhường đường cho người khác. Họ không còn nghĩ rằng giữ một không gian sống sạch đẹp sẽ có ích lợi cho mọi người, trong đó có họ; giúp giao thông điều hòa, tránh ùn tắc, sẽ tiết kiệm được thời giờ của mọi người, kể cả họ. Họ chỉ muốn được việc cho riêng mình, thỏa mãn ý thích của riêng mình, không cần nghĩ tới ai khác. Ở bình diện cao hơn, những lợi ích chung của đất nước và xã hội như kỷ cương, luật lệ, danh dự của đất nước, uy tín của dân tộc cũng bị coi thường. Biết cách vi phạm luật lệ mà không bị phát giác được coi là khôn ngoan. Lừa đảo, gian tham, buôn bán ma túy làm giầu mau lẹ được coi là khéo xoay sở. Sang Anh, Úc trồng cần sa để kiếm tiền bất chánh, không quan tâm tới luật lệ xứ người, không sợ bị truy tố và chỉ đích danh là người Việt Nam, được coi là tài giỏi. Những ai tôn trọng luật pháp, làm ăn lương thiện bị chê là khờ dại, đôi khi còn bị chửi là đồ ngu, làm rách việc.
Tình liên đới xã hội cũng không còn. Giúp đỡ người tàn tật, nghèo đói, ốm đau, gặp tai nạn… là việc của người khác, không phải của “tôi”. Thấy người bị hành hung, kể cả nữ sinh bị lột trần và đánh hội đồng giữa đường phố, cũng chỉ đứng xem, không can ngăn. Thái độ dửng dưng là thái độ của con người vô cảm, không còn xúc động trước bất cứ điều gì. Trên bình diện quốc gia, thiếu vắng những biện pháp giảm bớt sự chênh lệch giầu nghèo, không thực hiện tình liên đới và công bằng xã hội bằng việc chữa trị người đau ốm, săn sóc người già, trợ cấp người thất nghiệp, nuôi nấng cô nhi qủa phụ và người khuyết tật. Tự nhận theo xã hội chủ nghiã mà không làm những việc này là nói láo.
2/ Mất ý niệm dân tộc và ý chí đấu tranh
Một dân tộc là một tập hợp của những con người có cùng nguồn gốc, cùng tiếng nói, cùng lịch sử, cùng phong tục. Yếu tố nguồn gốc chỉ tính theo đa số. Chẳng có dân tộc nào thuần nhất về nguồn gốc một trăm phần trăm. Nhiều dân tộc hiện nay mang tính tạp chủng nhưng người dân vẫn gắn bó với nhau vì những thụ đắc chung trong qúa khứ, vì nhu cầu sống chung trong hiện tại và những ước vọng chung cho tương lai. Tinh thần dân tộc của người Việt hiện nay ra sao? Từ trên xuống dưới đều sống theo kiểu “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Ðảng cộng sản thì chỉ lo cho đảng trụ càng lâu càng tốt để tiếp tục vơ vét và cưỡi cổ dân tộc. Nhân viên công lực có nhiệm vụ bảo vệ dân thì chỉ biết “còn đảng, còn mình”. Dân thì lo kiếm sống cho bản thân và gia đình đã hụt hơi. Khi khá giả hơn thì tìm cách ăn chơi hưởng thụ. Hỏi còn lại bao nhiêu người nghĩ đến đất nước, đến dân tộc, đến tương lai của những thế hệ sau? Ðất nước bị bán rẻ, bị khai thác cũng mặc. Ðồng bào sống ngay cạnh mình bị đối xử tàn ác, bất công, bị cướp đất, bị tống tiền cũng dửng dưng. Ý niệm dân tộc đã mất. Tinh thần dân tộc đã phai mờ.
Một quốc gia mà tuổi trẻ không biết phản đối, đôi khi nổi loạn để đòi hỏi những cải cách xã hội là một quốc gia không có tương lai. Tuổi trẻ vốn nhiều lý tưởng, luôn đòi hỏi những gì tốt hơn, luôn mong ước một xã hội hoàn hảo hơn. Có thể một số đòi hỏi của họ không hợp lý và không tưởng, nhưng hãy để cho họ lên tiếng nói. Ðừng dập tắt lý tưởng, lòng hăng hái và những mộng mơ của tuổi trẻ. Với thời gian, họ sẽ trở nên khôn ngoan chín chắn hơn. Nếu bắt họ vào khuôn phép, chỉ thờ một thần tượng, chỉ tùng phục một tập đoàn toàn trị, có thể họ sẽ trở nên ngoan ngoãn, nhưng sẽ mất hết ý chí phấn đấu, kể cả phấn đấu cho điều thiện, cho đất nước, cho dân tộc. Phải chăng đảng cộng sản VN muốn một tuổi trẻ như thế? Tuổi trẻ vốn ít sợ hãi, ít tính toán mà đã bị làm tê liệt như vậy, thử hỏi những lớp người lớn hơn sẽ còn dè dặt và thụ động tới đâu? Một cuộc thay đổi toàn diện là điều đa số người Việt Nam mong muốn. Mong muốn nhưng để người khác làm. Mình chỉ muốn đứng coi và hưởng thành qủa. May thay vẫn còn nhiều người, kể cả những người trẻ, đã được miễn nhiễm loại vi trùng “liệt kháng” này. Ðó là hy vọng của dân tộc và cũng là mối lo của những người đang cầm quyền.
3/ Mất ý niệm đạo lý và truyền thống
Sống giữa một xã hội băng rã như vậy, được đào tạo trong một nền giáo dục lạc hậu, dối trá, vụ thành tích với những tấm gương không đẹp của thầy cô; được hướng dẫn tinh thần bởi những chức sắc tôn giáo sẵn sàng thỏa hiệp với kẻ ác có quyền để đổi lấy mũ áo xênh xang, cơ sở “hoành tráng”, cờ xí rước xách linh đình, dù sứ mạng được trao là bênh vực người nghèo, kiếm tìm công lý cho người bị áp bức; được cai trị bởi những quan tham từ thượng tầng tới hạ tầng chỉ lo kiếm tiền và hành dân, coi đất nước và dân tộc không quan trọng bằng ghế ngồi và hầu bao của mình, như thế người dân làm sao tránh khỏi phải phản ứng theo tình thế, điều chỉnh lối sống theo hoàn cảnh để sống còn. Luân lý, đạo nghiã trở nên vô dụng, không còn giúp được gì cho đời sống cá nhân và xã hội. Từ đó người ta nhiễm thói quen mới: sống theo bản năng, theo tâm lý thực dụng, tất cả để tìm kiếm quyền và lợi. Tương quan giữa người với người chỉ còn là tương quan quyền lợi, tìm cách lợi dụng và bóc lột lẫn nhau. Trên báo chí Việt Nam, chúng ta thấy đầy dẫy những bản tin cha mẹ, con cái, vợ chồng, bạn bè giết nhau, đốt nhau vì tiền và tình, thậm chí thầy hiệu trưởng Sầm Ðức Xương còn hiếp dâm nữ sinh và lôi học trò vào đường bán dâm. Trộm cướp, lừa gạt là chuyện cơm bữa. Nhà cầm quyền không có biện pháp giáo dục, ngăn ngừa, ngoài việc bắt nhốt và xử bắn. Thật ra, những người cầm quyền không thể làm hơn vì chính họ cũng là một phường trộm cướp, chỉ khác “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”.
Những truyền thống hiếu thảo với cha mẹ, anh em, “tôn sư trọng đạo”, “bằng hữu thâm giao”, bán anh em xa mua láng giềng gần, “thấy người hoạn nạn thì thương”, “bầu ơi thương lấy bí cùng”… mà dân tộc Việt Nam đã trân trọng gìn giữ từ ngàn xưa nay trở thành trò cười cho những con người của thời đại cộng sản. Ðiều nguy hiểm là người ta không còn phân biệt xấu tốt, thiện ác, phải trái. Nhất điểm lương tâm đã lu mờ. Quan niệm tội trở thành chủ quan, vì mình tự cho phép mình phạm tội và chính mình làm quan tòa xét xử mình với những lý lẽ tự bào chữa. Lối suy nghĩ và hành động này đã được những người cộng sản phát huy tối đa và lây lan ra cả xã hội. Ông Hồ Chí Minh đã “chôm” lời của Quản Trọng để dậy đời: “Kế hoạch một năm không gì bằng trồng lúa. Kế hoạch mười năm không gì bằng trồng cây. Kế hoạch trăm năm không gì bằng trồng người” (Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc. Thập nhiên chi kế mạc như thụ mộc. Bách niên chi kế mạc như thụ nhân) để nói lên cái hại của sự tàn phá và cái khó của việc xây dựng con người. Ông “quên” nói tên tác giả và cũng quên rằng chính ông và bọn đàn em theo ông đã tàn phá con người Việt Nam từ nhiều thế hệ qua. Bao giờ mới tới lúc trồng người lại được đây? Và đến bao giờ mới có thể gặt hái thành qủa?
III - NHỮNG ÐIỂM HẸN KHÔNG THỂ VẮNG MẶT TRONG TƯƠNG LAI
Những người có trách nhiệm quản trị đất nước, ngoài việc giải quyết những vấn đề hiện tại, còn phải biết sửa soạn cho đất nước có khả năng đối phó với những vấn đề tương lai, ít ra là tương lai gần. Một số vấn đề quan trọng của địa cầu và của con người sống trên đó đang được quan tâm và bàn cãi một cách khẩn trương. Việt Nam không thể đứng ngoài mối quan tâm này.
Trong cuốn The World in 2050 (Thế Giới Vào Năm 2050) được nhà xuất bản Dutton phát hành tại Hoa Kỳ năm 2010, tác giả Laurence C. Smith đã nêu lên một số vấn đề lớn mà nhân loại phải lo giải quyết ngay từ bây giờ. Ðó là
Gia tăng dân số kèm theo đòi hỏi gia tăng thực phẩm và nguyên liệu,
Ðô thị hóa và những vấn đề đặt ra,
Toàn cầu hóa với những ưu điểm và khuyết điểm,
Thay đổi khí hậu với những hậu qủa của nó.
1/ Việc gia tăng dân số địa cầu đã diễn ra với một tốc độ càng lúc càng nhanh. Cách đây khoảng 12,000 năm, chỉ có 1 triệu người sống trên trái đất. Măi đến năm 1800, dân số địa cầu mới tăng lên 1 tỷ, rồi tỷ thừ hai đạt được chỉ sau đó 230 năm, tức năm 1930. Tỷ thứ ba chỉ cần 30 năm, 1960. Hiện nay trái đất có 6 tỷ người. Dự trù năm 2050 sẽ có 9.2 tỷ. Việt Nam năm 1975 chỉ có khoảng trên dưới 40 triệu dân cả Bắc lẫn Nam. Ðến nay, sau 36 năm, dân số đã lên tới 86 triệu, tức qúa gấp đôi.
Thêm người thì phải thêm thực phẩm, nước uống và các thứ nhiên liệu. Dù kỹ thuật canh tác và khai thác tài nguyên thiên nhiên có tiến bộ tới đâu, chúng ta vẫn phải tự hỏi trái đất có khả năng thỏa mãn những nhu cầu ngày càng gia tăng của con người mãi mãi được không? Vì vậy việc bảo đảm một môi trường sạch, nhất là nguồn nước sạch là vấn đề thiết yếu hàng đầu. Việt Nam đang làm gì với tài nguyên thiên nhiên và môi trường của mình? Nước thải khai quặng bauxite và từ các xưởng kỹ nghệ, đốn cây phá rừng, xử dụng bừa bãi hóa chất mua rẻ từ Trung Hoa có góp phần giải quyết vấn đề này không?
2/ Hiện tượng đô thị hóa làm cho số người sống ở thành thị ngày càng gia tăng. Năm 2007 có 3.3 tỷ người sống ở các đô thị trên toàn thế giới. Con số này sẽ gia tăng tới 6.4 tỷ vào năm 2050. Dân bỏ nông thôn kéo nhau đi sinh sống làm ăn ở đô thị vì mức sống ở nông thôn qúa thấp, đời sống buồn tẻ, thiếu tiện nghi, chưa kể nhiều nhà máy, nhiều công trình mọc lên trên đất nông thôn, khiến đất canh tác ngày càng thu nhỏ. Những người quyết định kế hoạch mở rộng thành phố Hà Nội lên tận chân núi Ba Vì và sang tận tỉnh Hòa Bình có hiểu việc cắt đất canh tác, giảm khả năng cung cấp thực phẩm và đẩy nhanh việc đô thị hóa sẽ gây những hậu qủa gì cho toàn khu vực quanh Hà Nội trong mười hoặc hai mươi năm nữa? Ðô thị mở rộng và tăng dân cư trú đặt ra nhiều vấn đề cho những nhà cai trị và quản trị: công ăn việc làm, cung cấp thực phẩm, nước uống, giáo dục, vệ sinh và y tế, giao thông… Cứ nhìn các thành phố Hà Nội và Sài Gòn, với dân số tăng gấp 3 gấp 4 trong 36 năm qua, với nạn ùn tắc xe cộ, với tình trạng đường phố biến thành sông khi có mưa lớn, với nạn cúp điện giữa ngày hè nóng nực…, chúng ta đã đoán biết đời sống của thị dân hai thành phố này trong những thập niên sắp tới sẽ khốn khổ ra sao, nếu không có những cải thiện căn bản.
3/ Toàn cầu hóa là một nhu cầu của thời hiện tại. Nó cổ võ giao lưu hàng hóa và sự hiểu biết. Nó kéo các dân tộc lại gần nhau và làm cho trình độ dân trí không qúa cách biệt giữa các sắc dân trên địa cầu. Nhưng khi nói đến toàn cầu hóa là nói đến tự do doanh thương. Thomas Friedman trong cuốn The World is flat, xuất bản năm 2006 tại Hoa Kỳ, nhận định tự do doanh thương đòi hỏi tối đa tính hiệu qủa (efficiency) và lợi nhuận (profitability). Những gì rẻ nhất, kể cả sức lao động, được săn lùng đến khắp mọi ngõ ngách của trái đất. Ðiều này khiến cho hố cách biệt giầu nghèo ngày càng mở rộng. Những nước có kỹ thuật cao mua rẻ nguyên liệu và thuê rẻ lao động của các nước nghèo. Họ không chuyển giao kỹ thuật. Dân nghèo có việc làm tạm bằng lòng với đồng lương vừa đủ sống qua ngày, còn hơn thất nghiệp và đói rách. Trong khi giới đầu tư thu hoạch “một vốn bốn lời”.
Phát triển kinh tế ở Việt Nam đang đi theo con đường này. Lẽ ra việc dùng nhân công rẻ để thu hút đầu tư chỉ là giai đoạn đầu. Ngay sau đó phải học hỏi và đòi hỏi chuyển giao kỹ thuật. Với lối đào tạo nặng lý thuyết và lạc hậu tại các đại học như hiện nay, với việc cấp bằng tiến sĩ như bán rau muống, với việc gửi hàng vạn sinh viên đi du học mà ít có người chịu về, nhất là với tình trạng móc ngéo để hỗ tương thủ lợi giữa những người có quyền và những nhà đầu tư, toàn cầu hóa đối với Việt Nam là tiếp tục cung cấp lao động rẻ, tiếp tục giúp một thiểu số làm giầu và tiếp tục bán rẻ tài nguyên của đất nước.
4/ Khí hậu thay đổi sẽ gây những hậu qủa trầm trọng.Trái đất sẽ nóng lên vì hiện tượng nhà kính (green house), nhưng quan trọng hơn là khí thải CO2 (carbon dioxide) của các xưởng kỹ nghệ, của khói xe đủ loại. Các nhà khoa học ước tính khi nhiệt độ địa cầu tăng từ 3 đến 6 độ bách phân, các băng sơn ở hai cực sẽ tan, mực nước biển sẽ dâng cao từ 40 tới 60 mét, nhiều vùng đất ven biển sẽ bị ngập. Trong số 20 thành phố hải cảng có nguy cơ bị ngập lớn nhất, Sài Gòn đứng thứ 5, Hải Phòng thứ 16. Tình trạng xả khói xe, khói nhà máy ở Việt Nam rất trầm trọng. Việc phải làm ngay là bắt buộc các công ty kỹ nghệ phải lọc khói và lọc nước trước khi trả lại thiên nhiên, bắt các nhà sản xuất xe hơi, xe gắn máy phải tìm cách giảm thiểu khí thải CO2, buộc xe cộ phải dùng xăng không pha chì (unleaded).
Những điều trên không liên quan trực tiếp đến đề tài tình hình Việt Nam, nhưng liên quan đến số phận của đất nước và dân tộc trong một tương lai không xa. Chúng là những điểm hẹn với thế giới nhằm giải quyết những vấn đề của địa cầu, trong đó có Việt Nam. Còn một điểm hẹn khác tối ư quan trọng mà chúng ta không có quyền để lỡ, đó là điểm hẹn với lịch sử để chấm dứt trang sử đau thương của dân tộc sau 60 năm dưới chế độ cộng sản, và giải quyết mọi vấn đề còn chồng chất do qúa khứ để lại.
Ðó là những vấn đề của Việt Nam. Ðó là tình hình đất nước hiện nay. Chúng ta không bôi đen toàn cảnh nhưng thực sự không thể lạc quan. Nghĩ cho cùng dân Việt Nam chỉ là nạn nhân. Những thờ ơ của họ đối với đất nước, những giành giật mánh mung đối với đồng bào, những khiếp nhược đối với người cầm quyền, tất cả là nhu cầu phải thích ứng với hoàn cảnh để tìm sự sống trong cái chết. Chính những người cộng sản muốn tạo ra một khối dân như vậy để dễ dàng cai trị và bóc lột. Ðừng đặt những vấn đề lý tưởng cao siêu, kể cả lý tưởng cộng sản, với những người cộng sản Việt Nam. Họ không còn tin gì hết. Họ chỉ lọc lựa những gì còn có lợi cho họ để làm nhãn hiệu dán trên lưng hầu tiếp tục ra tuồng. Xã hội chủ nghiã, quyền lợi giai cấp công nông, trung với đảng hiếu với dân… chỉ là những chiêu bài cửa miệng cực kỳ gian dối. Họ cố bám lấy quyền hành nhưng không biết và không muốn làm chức năng của người cầm quyền. Lý do dễ hiểu: họ chỉ coi đất nước như một chiến lợi phẩm để vơ vét, coi dân tộc như một bầy nô lệ để khai thác và bóc lột. Vì vậy, đối với những ai còn nghĩ tới đất nước và dân tộc, việc cấp thời phải làm ngay là đánh thức dân Việt về quyền lợi của họ bị cướp đoạt, nhắc nhở giới trí thức, sinh viên đừng quên vai trò dẫn đầu quần chúng của họ trong việc bảo vệ tổ quốc và xây dựng một xã hội tốt đẹp. Phải có ý thức mới dẫn tới hành động. Một tia lạc quan như ánh sáng le lói cuối đường hầm đã xuất hiện khi chúng ta thấy ý thức của dân Việt đã chuyển động, thấy dân đã hành động, dù chưa toàn bộ, thấy nhiều trí thức đã nhập cuộc, thêm vào đó là sự lúng túng, bất lực của những người cầm quyền tại Việt Nam trong việc giải quyết những vấn đề kinh tế. Họ cũng không dấu nổi những lo sợ, hoảng hốt qua việc gia tăng những đàn áp thô bạo nhắm vào dân, khiến dân càng thêm căm phẫn. Dân Việt Nam còn được khích lệ khi thấy cao trào đòi tự do dân chủ của nhân dân các nước châu Phi và Trung Ðông đã đánh đổ nhiều chế độ độc tài tàn ác và vững mạnh, thấy thế giới đã đổi chiều, công khai yểm trợ những dân tộc biết đấu tranh cho quyền sống của mình. Chúng ta có những lý do để hy vọng một ngày tươi sáng của đất nước sẽ đến gần, để toàn dân cùng chung tay xây dựng tương lai, xóa đi những u ám của qúa khứ.
Những cuộc thảo luận như chúng ta đang làm hôm nay cũng là góp phần làm cho niềm hy vọng đó sớm trở thành hiện thực.
-----------------------------
(1) Theo Wikipedia, lợi tức thường niên tính theo đầu người (GDP per capita): Singapore: US$ 49,754. Malaysia: 13,385. Thailand: 7,907
(2) Thêm một số công ty nhà nước lỗ nặng trong năm 2010: Tổng Công Ty Cơ Khí Xây Dựng lỗ 39 tỷ đồng VN, Tổng Công Ty Công Trình Giao Thông lỗ 149 tỷ , Tổng Công Ty Cà Phê lỗ tích lũy từ trước đến nay 525 tỷ…
(3) Cũng trong năm 2010, Tổng Công Ty Lương Thực Miền Nam nợ 56 tỷ đồng VN, Tổng Công Ty Xây Dựng Hà Nội nợ 51,2 tỷ, Công ty Thương Mại và Xuất Khẩu Viettel nợ 79 tỷ…
(4) Một số trường hợp điển hình: Tỉnh Quảng Ninh có 19 dự án cho thuê biển để trồng cấy thủy sản: công ty Việt Mỹ được thuê 506 ha (1 ha = 1 mẫu tây = 10,000 mét vuông. 506 ha = 5,060,000 m2), công ty ToDi thuê 569 ha, công ty ngọc trai Taiheyo Shinju 30 ha… Tại Nha Trang, công ty ngọc trai của Ðài Loan được thuê 442 ha, công ty ngọc trai Nhật Bản 300 ha, công ty Marifarm của Na Uy 136 ha… Các bãi tắm đẹp nhất ven biển ở Ðà Nẵng, Quảng Nam, Nha Trang, Ninh Thuận, Phú Quốc cũng đã và đang được giao cho các nhà đầu tư, đa số ngoại quốc, thuê dài hạn để họ tự do khoanh vùng, biến nhiều đoạn bờ biển thành bất khả xâm phạm.
GS Nguyễn Tác An, Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Gia Chương Trình Hải Dương Học, phát biểu: “Việc cho nước ngoài vào thuê mặt biển sẽ càng gây căng thẳng, mất an ninh. Rõ ràng, khi thuê được rồi, các ông chủ nước ngoài sẽ ngăn lại, làm mất quyền giao thông, mất quyền khai thác tại vùng biển quê hương của người dân. Bên cạnh đó, việc thuê mặt biển để kinh doanh quy mô lớn có thể gây những tác động khôn lường về môi trường… Nếu không suy xét cẩn trọng, chúng ta sẽ phải trả giá đắt trong hiện tại và tương lai”.
Ông Nguyễn Chu Hồi, Phó Tổng Cục Trưởng Cục Biển và Hải Ðảo thuộc Bộ Tài Nguyên Môi Trường (Bộ liên quan trực tiếp tới biển và rừng), tuyên bố: “Biển còn là câu chuyện dài, câu chuyện không của riêng ai, một công việc đại sự của cả dân tộc. Ðừng để một kẻ chặt mấy cây gỗ rừng có thể bị xử tù, còn đang tâm phá tan lòng biển lại không ai thấy!” (theo vietnamnet.vn ngày 17-08-2010)
MacGiao's Blog
Thursday, June 16, 2011
Sunday, March 6, 2011
Ðã Hội Đủ Điều Kiện Cho Một Cuộc Nổi Dậy Việt Nam Chưa ?
Ông Mặc Giao là một trong những huynh trưởng đầu tiên của Phong Trào Thanh Sinh Công Việt Nam, nguyên là dân biểu Quốc Hội, Tổng Thư Ký Hạ Nghị Viện, Sứ thần ngoại giao của Việt Nam Cộng Hòa tại Paris (Pháp) trước 1975.
Đồng tác giả cuốn "30 năm Công Giáo Việt Nam dưới chế độ cộng sản", và tác giả sách khảo luận "Một cái nhìn khác về văn hóa Việt Nam". Hiện nay, ông là Chủ tịch Ủy Ban Canada Tự Do Tôn Giáo cho Việt Nam.
ĐÃ HỘI ĐỦ KIỀU KIỆN
CHO MỘT CUỘC NỔI DẬY
Ở VIỆT NAM CHƯA?
Mặc Giao
Chuyện thời sự trên đầu môi vào lúc này là cuộc nổi dậy thành công của nhân dân các nước Tunisia và Ai Cập, cũng như những cuộc biểu tình chống độc tài lây lan sang các nước Algeria, Yemen, Bahrain, Iran, Libya, đe dọa Saudi Arabica, Jordan và Syria. Những cuộc nổi dậy của nhân dân các xứ này xảy ra bất ngờ, lan rộng bất ngờ và cũng thành công bất ngờ. Quả thật đây là một hiện tượng, một biến cố lớn của lịch sử nhân loại vào tiền bán thế kỷ 21. Bộ mặt của vùng đất này trên thế giới sẽ thay đổi và sẽ có thể kéo theo những thay đổi trên những vùng đất khác.
Tuy nhiên, việc gì cũng có nhân có quả. Người dân các nước nói trên đã bị đàn áp, bóc lột, tước đoạt nhân phẩm và quyền làm người suốt một thời gian dài. Họ đã im lặng chịu đựng. Đôi khi bực bội vùng lên, nhưng chưa đồng loạt, nên dễ bị dập tắt. Dù vậy sự bất mãn, căm phẫn vẫn còn đó, mỗi ngày mỗi tăng thêm. Đến lúc không thể chịu đựng được nữa, niềm phẫn nộ đã vỡ òa và quét sạch những chế độ gian tham, tàn ác, dù đầy tiền bạc và súng đạn trong tay. Con giun bị xéo lắm cũng quằn, huống chi con người.
Trước những biến cố này, nhiều người "hồ hởi" cho rằng phong trào nhân dân vùng dậy sẽ lan tới Việt Nam và kêu gọi dân ta hãy đứng lên hưởng ứng. Có người lại bi quan cho rằng cuộc đấu tranh tương tự chưa thể xảy ra tại nước ta, vì tình hình các nước có biến cố không giống tình hình Việt Nam.
Điểm tương đồng quan trọng nhất giữa những nước có biến động và Việt Nam là những nước này bị cai trị bởi một chế độ độc tài, độc tài cá nhân, độc tài đảng phái, độc tài gia đình, độc tài quân chủ. Bản chất của mọi chế độ độc tài là áp bức người dân, tước đoạt mọi quyền tự do và quyền công dân của họ, vơ vét tài nguyên quốc gia và tài sản tư nhân để làm giầu cho một đảng, một gia đình, một cá nhân và đám bầy tôi. Lòng tham quyền và tiền nảy sinh tham nhũng, sự tàn ác, những mánh khóe bóc lột.
Hậu quả là đại đa số nhân dân sống trong nghèo khổ, xã hội chậm tiến, văn hóa suy đồi, trong khi những kẻ giầu có bất chính sống xa hoa, phè phưỡn trên sự đau khổ của những người khác. Đó là mầm bất ổn của xã hội, là nguyên nhân của những cuộc vùng dậy để dân đòi lại quyền lợi và nhân phẩm. Tại những quốc gia có tự do, dân chủ, không có tình trạng này, dù đôi khi dân chúng xuống đường hàng ngàn hàng vạn người để phản đối chính phủ hoặc đòi hỏi những quyền lợi cá biệt của từng giới. Có giải tán biểu tình, có bắt nhốt những phần tử qúa khích phá hoại, nhưng luôn luôn kết thúc trong hòa bình và chính phủ biết lắng nghe ý nguyện của dân.
Sự khác biệt nổi bật nhất giữa Việt Nam và các chế độ độc tài khác là quyền lực ở những nước kia thường được thâu tóm trong tay một cá nhân với những tay chân dễ sai khiến và với một chính đảng bù nhìn được dựng lên để làm bình phong. Nói chung là đám tay chân lo suy tôn lãnh tụ và bảo vệ lẫn nhau chỉ vì muốn giữ những đặc quyền, đặc lợi. Trong khi chế độ cộng sản Việt Nam do một đảng độc tôn nắm giữ, có chủ thuyết, có bài bản và kinh nghiệm cướp chính quyền, giữ chính quyền và khủng bố dân chúng để không ai dám chống lại.
Thêm vào đó, những con người cộng sản lại độc ác, mất nhân tính, coi đồng bào của mình như kẻ thù, đầy đọa trong lao tù, đánh đập, giết chóc không nương tay. Staline đã giết hàng triệu người Nga khi đầy họ đi khổ sai ở vùng giá lạnh Sibérie. Đặng Tiểu Bình đã ra lệnh tàn sát hàng ngàn sinh viên Trung Quốc trên quảng trường Thiên An Môn. Hồ Chí Minh cũng gây ra cái chết của hàng trăm ngàn nông dân trong những đợt cải cách ruộng đất… Vì vậy nhiều người bi quan cho rằng dân chúng sống dưới chế độ cộng sản khó vùng dậy vì sợ hãi và vì kỹ thuật khủng bố, đàn áp qúa tinh vi và dã man.
Nếu nhìn một cách khách quan, sự so sánh trên có phần đúng. Nhưng người ta sẽ giải thích ra sao sự tan rã của những chế độ cộng sản vô cùng hùng mạnh và gian ác ở Đông Âu, đứng đầu là Liên Xô? Liên Xô là nước cầm đầu khối cộng sản thế giới, là thánh địa để các nước cộng sản khác đến học hỏi và xin trợ giúp, là một cường quốc có binh hùng tướng mạnh, võ khí tối tân hiện đại không thua Hoa Kỳ, có guồng máy gián điệp và công an chìm KGB khổng lồ với kỹ thuật tân tiến bậc nhất thế giới.
Vậy mà chế độ Liên Xô đã sụp đổ vì sự phẫn nộ của nhân dân Nga, không phải vì ông Gorbatchev. Ông này chỉ muốn áp dụng chính sách cởi mở và đổi mới để cứu vãn nền kinh tế Liên Xô đang trên đường xuống dốc, không hề có ý định giải tán đảng cộng sản. Nhưng khi cánh cửa hé mở, nhân dân tràn tới đạp tung. Rồi như nước vỡ bờ, họ cuốn trôi luôn căn nhà chế độ.Guồng máy kềm kẹp, đàn áp của các nước cộng sản khác, Đông Đức, Bulgaria, Roumania, cũng tinh vi và tàn ác không kém Liên Xô. Nhưng khi nhân dân phẫn nộ vùng lên, không có gì cưỡng lại nổi. Công an bất lực, lo chạy trốn. KGB lo thủ tiêu tài liệu rồi lặn sâu. Quân đội khoanh tay đứng nhìn, không can thiệp. Ông Gorbatchev không còn cách nào giữ đảng ngoài việc giao quyền cho ông Boris Yeltsin, để ông này theo ý nhân dân giải thể chế độ cộng sản.
Điều đáng quan ngại đối với trường hợp Việt Nam là dân ta vốn có tính thụ động, ít quan tâm tới việc chung, chỉ chú ý đến cái lợi trước mắt cho riêng mình và cho những người thân của mình. Dân Việt có truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm, nhưng lại ngoan ngoãn đối với những người cầm quyền bản xứ, cam lòng chịu phận "con sâu cái kiến", dù luôn bị "quan tha nha bắt".
Những người cộng sản hiểu tâm lý này của dân Việt. Họ áp dụng triệt để chính sách được gán là của Hoa Kỳ "cây gậy và củ cà rốt". Họ vừa hăm dọa, giữ dân trong sự sợ hãi thường xuyên, vừa đưa mồi ra nhử. Họ cũng áp dụng chính sách này với các đoàn thể và tôn giáo. Họ làm cho dân nhụt hết ý chí, đa số chỉ lo kiếm tiền và hưởng thụ, không nghĩ gì đến đất nước, đến công ích xã hội.
Giới trẻ thì thả cửa ăn chơi sa đọa trong một xã hội vô luân lý. Các tôn giáo thì bể thành nhiều mảnh do âm mưu chia rẽ và phá hoại của cộng sản. Phật Giáo thành 3 mảnh, Cao Đài, Hòa Hảo mỗi đạo thành hai mảnh, Tin Lành thành nhiều mảnh, Công Giáo tuy chỉ có một mảnh rưỡi (nửa mảnh là Ủy Ban Đoàn Kết CGVN) nhưng hàng giáo phẩm thân thiện cộng tác với nhà cầm quyền theo kiểu "úm ba la hai ta cùng lợi". Trông chờ nhân dân vùng dậy có vẻ khó.
Tuy khó khăn như vậy, chúng ta cũng không mất niềm hy vọng. Khó thì phải kiên trì hơn. Khó thì cần nhiều thời giờ hơn để hội đủ những điều kiện cho một cuộc đấu tranh dứt điểm. Dân Việt Nam vẫn chưa mất hết ý chí quật cường. Trí thức Việt Nam vẫn còn những bộ óc biết suy nghĩ. Tuổi trẻ Việt Nam chưa đánh mất nhiệt tâm yêu nước và yêu tự do công lý. Bằng cớ là càng ngày càng có nhiều lời nói và hành động công khai phê phán và chống đối chế độ. Những cá nhân lãnh đạo cũng bị chỉ đích danh với những lỗi lầm và yếu kém của họ. Sự sợ hãi vẫn còn nhưng càng ngày càng giảm bớt. Nhà cầm quyền có thể bắt vài chục người hay một trăm người chống đối nổi bật nhất nhưng không thể bắt hết hàng triệu người âm thầm hay công khai chống chế độ.
Chúng ta hãy thử nhìn tương quan lực lượng giữa nhân dân Việt Nam và guồng máy cầm quyền tại Việt Nam để dự đoán những gì có thể xảy ra khi một cuộc vùng dậy bộc phát
* Phiá nhân dân:
Không phải tất cả 86 triệu người Việt Nam đều tích cực chống đối cộng sản và sẵn sàng tham gia một cuộc vùng dậy. Nhưng thực tế, tuyệt đại đa số dân Việt Nam đã chán chế độ cộng sản lắm rồi. Họ hoan nghênh bất cứ một sự thay đổi nào, dù chưa chắc họ sẽ tham gia việc tạo nên sự thay đổi. Có thể coi họ như một đa số thầm lặng, không hành động nhưng sẽ đi theo.
Mọi biến cố chỉ có thể xảy ra khi có một thiểu số năng động, tức là những thành phần tham gia trực tiếp biến cố. Chế độ Hosni Mubarak sụp đổ không cần 80 triệu dân Ai Cập xuống đường. Chỉ cần vài trăm ngàn đến cao điểm một triệu người tại quảng trường Tahrir ở thủ đô Cairo, vài chục ngàn ở Alexandrie và Port Said. Đám đông sẽ lôi kéo đám đông. Khi cao trào nổi lên, những người khác sẽ đi theo.
Những thành phần dân chúng có thể tham gia một cuộc đấu tranh vùng dậy:
- Giới trẻ, giới sinh viên
- Nạn nhân bị cướp đất, cướp nhà
(dân oan khiếu kiện)
(dân oan khiếu kiện)
- Nông dân bị cướp đất canh tác
- Công nhân bị bóc lột
- Tín đồ các tôn giáo (quan trọng nhất)
Giới trẻ đã có nhiều dịp thao tác trong các cuộc biểu tình chống Trung Quốc. Dân oan đã có kinh nghiệm đấu tranh trường kỳ. Công nhân đã có kinh nghiệm tổ chức đình công. Nông dân đã có kinh nghiệm đấu tranh giữ đất như ở Cồn Dầu (Đà Nẵng), Vụ Bản (Nam Định). Tín đồ các tôn giáo đã có kinh nghiệm đấu tranh đòi tự do tôn giáo, đòi đất đai và cơ sở bị chiếm hữu. Đây là những lực lượng sung kích đầu tiên.
Dù đã có lực lượng quần chúng nhưng vấn đề quan trọng là ai sẽ phát động cuộc đấu tranh? Có thể một tổ chức, một đoàn thể hay một nhóm công dân sẽ làm việc này. Nhưng cũng rất có thể một biến cố nhỏ hay một hành động đàn áp vô ý thức của nhà cầm quyền sẽ châm mồi cho đám cháy lớn. Cuộc cách mạng Hoa Nhài ở Tunisia bùng lên từ việc tự thiêu của Mohamed Bouazizi, một thanh niên thất nghiệp đi làm chui, không thể chịu nhục vì bị một nữ cảnh sát viên chửi rủa, đánh đập khi xét giấy tờ.
Cuộc vùng dậy ở Ai Cập khởi đầu bằng việc đàn áp một số không đông những người biểu tình ôn hòa, trong số đó anh Khalid Sayid bị cảnh sát đánh chết. Việc này khiến anh Wael Ghonim phẫn nộ. Anh Wael Ghonim là một thanh niên 30 tuổi, có tài đặc biệt về kỹ nghệ thông tin, đang giữ chức giám đốc điều hành (executive manager) của công ty Google ở Dubai. Anh bắt đầu cuộc đấu tranh ôn hòa bằng kỹ thuật computer. Anh lập hàng loạt twitter, blog, website, mở facebook có tên "Tất cả chúng tôi là Khalid Sayid" để truyền những bản tin và những hình ảnh đàn áp. Anh thông báo ngày giờ, địa điểm tập họp. Đám đông cứ việc làm theo những thông tin của anh, chẳng cần theo một lãnh tụ chính trị hay tôn giáo nào. Những lãnh tụ này mấy ngày sau mới lẽo đẽo theo đám đông đi biểu tình để kiếm điểm.
Kỹ thuật thông tin hiện đại là một đe dọa sinh tử cho những chế độ độc tài. Họ không còn có thể bóp méo thông tin và bưng bít nhân dân được nữa. Những tội ác của họ được phơi bầy. Kế hoạch và ngày giờ đấu tranh lật đổ họ được thông báo cho hàng ngàn hàng vạn người cùng một lúc. Dù họ biết cũng trở tay không kịp. Có thể kỹ thuật thông tin liên lạc qua computer ở Tunisia và Ai Cập phát triển hơn ở Việt, nhưng số lượng người dùng computer ở Việt Nam cũng không phải nhỏ, có thể ước lượng hàng triệu.
Chúng tôi biết một tổ chức người Việt ở Hoa Kỳ có ba triệu địa chỉ email tại Việt Nam, một cá nhân ở Úc có vài chục ngàn địa chỉ. Họ vẫn thường xuyên gửi tin tức, hình ảnh và những bài viết về những địa chỉ này. Tường lửa do nhà cầm quyền dựng lên bị vượt qua dễ dàng đối với những người muốn vượt. Kỹ thuật thông tin qua computer chắc chắn là một lợi khí cho cuộc đấu tranh chống cộng của nhân dân Việt Nam.
*Phiá guồng máy cầm quyền:
Dĩ nhiên guồng máy cầm quyền hiện có nhiều lợi thế. Họ có 3 triệu đảng viên, có tiền, có chính quyền, công an và quân đội. Tuy nhiên trong cái mạnh vẫn có cái yếu:
- Trong số 3 triệu đảng viên, có bao nhiêu người trung thành với đảng, sẵn sàng hy sinh vì đảng đến giọt máu cuối cùng? Có bao nhiêu người vào đảng vì lý tưởng cộng sản hay chỉ vì cơ hội tiến thân và kiếm tiền? Có bao nhiêu đảng viên đang uất ức, bất mãn vì không được ban bổng lộc, chức tước như họ mong muốn? Có bao nhiêu đảng viên đã phản tỉnh về sự sai lầm của đảng nhưng chưa dám rút chân ra vì còn bị kềm kẹp trong guồng máy và còn dính dáng tới quyền lợi?
Chưa kể những đảng viên lão thành như ông Nguyễn Văn An, cựu chủ tịch Quốc Hội, nguyên ủy viên trung ương đảng, cũng như nhiều đảng viên tai mắt khác, đã công khai phê phán đảng, đòi cải tổ tận gốc rễ, nhiều người thẳng thừng đòi dẹp bỏ chế độ cộng sản. Chắc chắn đảng không phải là một khối thuần nhất và không phải là một khối sức mạnh vô địch có thể đập tan mọi cuộc nổi dậy chống đảng. Người ta nghĩ rằng nếu có một biến cố xảy ra, sẽ có vô số đảng viên mau lẹ nhảy tầu để khỏi bị đắm chung.
- Tiền và chính quyền chỉ được xử dụng khi có lãnh đạo. Khi lãnh đạo bị cô lập, chính quyền sẽ tê liệt. Nhân viên chính quyền các cấp bất cứ ở đâu, bất cứ thời nào cũng có truyền thống án binh bất động, khoanh tay ngồi chờ khi có biến động dẫn đến việc thay đổi quyền hành. Họ muốn được vô can và chờ nhận lệnh khi tình hình ngã ngũ.
- Công an là lực lượng chính bảo vệ chế độ. Nhân viên công an được tuyển chọn trong hàng ngũ thân tín và trung thành, được đãi ngộ đặc biệt và được giao quyền sinh sát. Vì vậy người chỉ huy công an mới hiệu triệu thuộc cấp bằng bằng khẩu hiệu "Còn đảng còn mình".
Điều này có nghiã nếu không bảo vệ đảng, để đảng mất là mình cũng tiêu luôn. Chỉ biết có đảng thôi, không cần biết tới đất nước và đồng bào. Công an ý thức rất rõ là họ đã gây nhiều ân oán với nhân dân, bị nhân dân thù ghét. Khi có cơ hội, dân sẽ "hỏi thăm sức khỏe" của công an trước tiên.
Do đó, khi được hiếp đáp dân thì công an hùng hổ ra tay, khi có tiếng nổ lớn như ở Sài Gòn ngày nào là công an trốn biệt, sợ bóng viá biến cố, sợ nhân dân hỏi nợ. Bất cứ một cuộc đấu tranh vùng dậy nào cũng sẽ bị công an đàn áp. Máu sẽ phải đổ. Nhiều hay ít là do mệnh lệnh của những người nắm quyền, và cũng do chiến thuật đấu tranh của nhân dân. Vùng dậy ít nơi, người tham dự không đông, công an dễ đánh đập, bắn giết, bắt nhốt.
Nhưng nếu sự việc xảy ra nhiều nơi cùng một lúc với số người tham dự đông đảo, công an sẽ bị phân tán lực lượng và sẽ bị số đông áp đảo, tràn ngập. Sự thiệt hại về phiá nhân dân sẽ rất ít. Khi máu đã đổ, máu sẽ gọi máu. Quần chúng sẽ phẫn nộ, sẽ nôn nóng trả thù. Dù có hàng sư đoàn công an cũng không thể đương đầu với hàng trăm ngàn, hàng triệu người đang say sưa khí thế đấu tranh và căm phẫn trước việc đồng bào bị tàn sát. Diễn tiến này luôn luôn xảy ra cùng một bài bản ở khắp nơi có những cuộc vùng dậy.
- Khi công an đã bất lực trong việc đàn áp nhân dân, quân đội sẽ được gọi tới. Nếu một quân đội sẵn sàng bắn giết dân lành không một tấc sắt trên tay theo lệnh đảng như ở Thiên An Môn thì đảng đã thành công trong việc biến quân đội thành cầm thú, tàn sát đồng loại không gớm tay. Nhưng không phải lúc nào cũng xảy ra như vậy. Toàn thể lực lượng quân sự hùng mạnh của Khối Varsovie đã khoanh tay đứng nhìn dân chúng đấu tranh lật đổ hàng loạt chính phủ cộng sản. Nhiều tướng lãnh Liên Xô đã từ chức hoặc tuyên bố không tuân lệnh bộ quốc phòng và ra lệnh cho lính không được bắn vào dân.
Chúng ta đừng quên rằng, cũng như ở Việt Nam, quân đội của các quốc gia cộng sản này bị hệ thống quân ủy của đảng kiểm soát và điều động, quyền của một chính ủy nhiều khi còn lớn hơn quyền một chỉ huy trưởng. Vậy mà quân đội vẫn không theo lệnh đảng. Tại Tunisia, quân đội đã đứng ngoài vòng tranh chấp. Quân đội Ai Cập được lệnh đưa chiến xa đến bố trí ở quảng trường Tahrir. Quân đội đã thi hành lệnh, nhưng án binh bất động, binh lính nắm tay múa hát với người biểu tình.
Sau chiến thắng, quân đội Ai Cập lãnh nhiệm vụ giữ an ninh và tạm thời điều hành quốc gia trong 6 tháng để tổ chức một cuộc bầu cử tự do. Qua những tiền lệ trên, không ai dám tin chắc quân đội "nhân dân" Việt Nam sẽ giết dân theo lệnh đảng. Điều cần là chúng ta phải tiến hành ngay công tác vận động quân đội để họ nhận thức rõ rệt rằng quân đội có nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc và nhân dân, không phải là công cụ của một đảng, nên không thể chiã súng bắn vào đồng bào, trong đó có cha mẹ, anh em, bạn bè của mình.
Cuộc tranh đấu của dân Việt Nam có hai lợi điểm khác mà dân Tunisia và Ai Cập không có: Một là lực lượng chống cộng của người Việt ở hải ngoại, dù chưa quy tụ thành một mối, rất mạnh, đấu tranh kiên trì không mệt mỏi suốt 36 năm qua, đã tiếp tay yểm trợ anh chị em đấu tranh cho dân chủ trong nước qua nhiều đường dây và nhiều hình thức mà cộng sản không kiểm soát nổi.
Hai là dân Việt Nam, kể cả nhiều đảng viên cộng sản, có một mục tiêu tranh đấu chung rất rõ rệt: đó là chống lại những người bán nước, dâng đất, dâng biển cho ngoại bang, cắt những phần đất mầu mỡ và có địa thế chiến lược của tổ quốc cho kẻ thù truyền kiếp thuê để khai thác. Ngoài những tội khác, tội này rất dễ gây căm phẫn trong nhân dân và dễ khích động tuổi trẻ tràn đầy nhiệt huyết yêu nước đứng lên hỏi tội thủ phạm.
Dể kết luận, tôi nhận thấy những yếu tố cho một cuộc nổi dậy tiêu diệt độc tài tại Việt Nam đã hội đủ, dù vẫn còn nhiều khó khăn. Những tổ chức trong nước, những đường dây nối kết từ ngoài vào trong, nếu chưa đến lúc kết hợp thành một, hãy tìm cách phối hợp với nhau trong những công tác cụ thể, đồng bộ thực hiện một chiến dịch chung, nắm bắt cơ hội hay tạo ra cơ hội để châm ngòi cho cuộc nổi dậy bùng lên.
Hãy chuẩn bị việc hướng dẫn cuộc nổi dậy đi đến thành công mong muốn, ngăn chặn những phần tử cộng sản trá hình và những nhóm hoạt đầu lợi dụng để hướng lái cuộc đấu tranh theo mục tiêu riêng của họ.
Hãy hòa mình với cao trào nhân dân vùng dậy tiêu diệt độc tài áp bức ở Bắc Phi và Trung Đông để giải phóng dân tộc Việt Nam.
Hãy rút kinh nghiệm từ những cuộc đấu tranh này để thực hiện cho chính mình. Thế giới đang ngạc nhiên và ủng hộ cao trào tự giải phóng đang diễn ra. Những tính toán của các cường quốc cũng phải nhường bước trước ý chí của nhân dân các nước này.
Không một nước nào bênh vực những chế độ độc tài đang dẫy chết. Nhân loại đang dành cảm tình cho những dân tộc dám vùng lên để tự cứu mình. Dân tộc Việt Nam đừng bỏ lỡ cơ hội.
Mặc Giao
Ông Mặc Giao là một trong những huynh trưởng đầu tiên của Phong Trào Thanh Sinh Công Việt Nam, nguyên là dân biểu Quốc Hội, Tổng Thư Ký Hạ Nghị Viện, Sứ thần ngoại giao của Việt Nam Cộng Hòa tại Paris (Pháp) trước 1975. Đồng tác giả cuốn "30 năm Công Giáo Việt Nam dưới chế độ cộng sản", và tác giả sách khảo luận "Một cái nhìn khác về văn hóa Việt Nam". Hiện nay, ông là Chủ tịch Ủy Ban Canada Tự Do Tôn Giáo cho Việt Nam.
test post
test post
from Courier 12
from Courier 12
|---------|---------|---------|---------|---------|---------|
0 10 60
Subscribe to:
Posts (Atom)